
Nhận định về điện gió trên biển: Thời điểm phải hành động đã đến và kế hoạch phát triển Điện lực 8
04/10/2021TN&MTĐã đến lúc Việt Nam cần công nhận rằng điện gió ngoài khơi có thể đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống năng lượng tương lai và nền kinh tế của đất nước, mang lại việc làm, tăng trưởng bền vững và với sự điều hành cần thiết, phát triển một chuỗi cung ứng cạnh tranh về chi phí có thể phục vụ một khu vực rộng lớn hơn ở châu Á.
Ảnh minh họa
Nhận định về điện gió trên biển
Trong số các công nghệ về năng lượng tái tạo đã hoàn thiện, điện gió trên biển mang lại cho Việt Nam một nguồn điện năng dồi dào, bản địa, sạch và giá cả phải chăng. Theo Chương trình Hỗ trợ Quản lý Ngành Năng lượng của Nhóm Ngân hàng Thế giới (ESMAP), Việt Nam có tổng tiềm năng kỹ thuật điện gió trên biển cố định và nổi lên tới 475 GW. Năm 2020, Cơ quan Năng lượng Đan Mạch đã công bố một lộ trình phát triển điện gió trên biển tại Việt Nam. Cơ quan này xác định tiềm năng tài nguyên kỹ thuật cho điện gió ngoài khơi là 160 GW, không bao gồm các khu vực thuộc lợi ích quốc gia hoặc quân sự.
Hiện nay, Việt Nam chưa có các dự án trang trại điện gió ngoài khơi thực sự đang hoạt động. Mặc dù, quốc gia này đang trong quá trình lắp đặt khoảng 530 MW công suất bãi triều,ven bờ từ năm 2020 - 2021, nhưng con số này vẫn thấp hơn nhiều so với tiềm năng tài nguyên đã được đánh giá và không phản ánh được tiềm năng của điện gió ngoài khơi thực sự ở Việt Nam. Phân biệt giữa các dự án bãi triều với các dự án ngoài khơi thực sự là nhu cầu cấp thiết, vì hai công nghệ này rất khác nhau, từ các tuabin được sử dụng và thiết kế móng, đến quy mô sản lượng điện, hồ sơ chi phí và rủi ro liên quan đến sự phát triển của các dự án.
Điện gió ngoài khơi tạo ra lượng điện không carbon khổng lồ với năng suất cao. Nhờ vậy, điện gió ngoài khơi cung cấp nguồn năng lượng tái tạo đáng tin cậy nhất, đáp ứng các thách thức về cung và cầu điện trong ngắn hạn, đồng thời hướng tới các mục tiêu khử cacbon trong dài hạn. Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện hành động cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và ngăn ngừa tình trạng thiếu điện trong tương lai, điện gió ngoài khơi có thể đảm bảo một nguồn năng lượng quy mô lớn và đáng tin cậy. Đồng thời, việc triển khai điện gió trên biển hỗ trợ những đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam, trong đó theo cập nhật gần đây đã đặt mục tiêu tới năm 2030 giảm 9% phát thải khí nhà kính hoặc giảm tới 27% với sự hỗ trợ của quốc tế.
Nghị quyết số 55 - NQ/TW do Bộ Chính trị ban hành ngày 11/2/2020 cũng chỉ rõ sự cần thiết phải xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phép phát triển điện gió ngoài khơi nhanh và bền vững ở Việt Nam, phù hợp với chiến lược biển bao quát hơn của Chính phủ và kế hoạch CNH-HĐH đất nước.
Kế hoạch hành động năm 2021
Giải quyết tình trạng thiếu điện giai đoạn từ nay đến năm 2025: Việt Nam đang trên đà phát triển nhanh, với tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 5,9-7% trong 20 năm qua. Theo đó, nhu cầu điện cũng tăng ở mức hai con số so với cùng kỳ, trung bình 10-11% chỉ trong thập kỷ qua. Điều này cho thấy Việt Nam, quốc gia đang phải đối mặt với nguồn dự trữ điện ngày càng giảm, với tình trạng thiếu điện có thể xảy ra trong vài năm tới, cho đến năm 2025. Một số nguồn sản xuất nhiệt điện trong QHĐ 7 chậm tiến độ từ 1-2 năm làm tăng nguy cơ thiếu điện nghiêm trọng cho hệ thống điện miền Nam và các vùng khác của Việt Nam. Khi tăng trưởng kinh tế phục hồi sau đại dịch COVID-19, nhu cầu điện cũng sẽ tăng với tốc độ cao sau từ sau năm 2021 - mức tăng trưởng này sẽ còn được cộng thêm bởi xu hướng các tập đoàn đa quốc gia đa dạng hóa hoạt động chuỗi cung ứng trên khắp Trung Quốc và Đông Nam Á. Trên tinh thần Nghị quyết số 55 - NQ/TW, Đan Mạch đã kêu gọi Chính phủ Việt Nam công nhận tiềm năng điện gió ngoài khơi trong việc đáp ứng mục tiêu chính sách về tăng cường an ninh điện thông qua năng lượng tái tạo bản địa có quy mô lớn hơn.
Tăng độ tin cậy và hiệu quả chi phí của năng lượng: Theo BloombergNEF, điện gió ngoài khơi thực sự có hệ số công suất trung bình là 45%, vượt xa hệ số công suất trung bình của các công nghệ năng lượng tái tạo khác như điện mặt trời và thậm chí cả điện gió trên bờ. Với những cải tiến về công nghệ, điện gió ngoài khơi có khả năng tăng năng suất phát điện hơn nữa, khiến điện gió ngoài khơi trở thành nguồn năng lượng tái tạo ổn định với khả năng dự đoán và khả năng thay đổi cao hơn.
Điều này đặc biệt có giá trị khi so sánh với các dự án khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG). Thị trường khí đốt toàn cầu đang đối mặt với tình trạng dư cung, do sự ồ ạt của khí đá phiến giá rẻ từ Mỹ và sự sụt giảm nhu cầu điện trong giai đoạn đại dịch hiện nay. Tuy nhiên, tình trạng dư cung chỉ là tạm thời và thị trường khí đốt toàn cầu sẽ đối mặt với tình trạng thiếu hụt thị trường sau năm 2032, do đó giá khí đốt được dự báo sẽ tăng. Một khi một dự án LNG được phát triển, nó sẽ gắn quốc gia đó vào thị trường năng lượng toàn cầu đầy biến động trong 20 - 25 sau đó. Ở châu Á, một số nước đang phát triển nhanh cũng đang trở thành các nhà nhập khẩu khí đốt - làm gia tăng cạnh tranh trong mua bán khí LNG. Trung Quốc sẽ trở thành thị trường LNG lớn nhất trong khi các nước ở Nam Á và Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam, Thái Lan và Pakistan, là những thị trường tăng trưởng mạnh nhất cho tới năm 2040. Theo đó, BloombergNEF dự báo chi phí LNG tại Việt Nam từ năm 2020 đến năm 2030 sẽ tăng 13%.
Mỗi MW điện gió bản địa ngoài khơi được lắp đặt sẽ thay thế một MW được tạo ra từ nhiên liệu hóa thạch, giúp Việt Nam tránh khỏi sự phụ thuộc vào nhập khẩu hàng hóa và sự biến động trên thị trường năng lượng toàn cầu và do đó tăng cường an ninh năng lượng quốc gia. Khi lĩnh vực điện gió ngoài khơi mở rộng quy mô, chi phí năng lượng sẽ giảm xuống và chênh lệch LCOE so với các dự án LNG sẽ ngày càng gia tăng.
Nhanh chóng hành động: So với các dự án điện gió trên đất liền, các dự án điện gió ngoài khơi thực sự có thời gian lập kế hoạch, phát triển và xây dựng lâu hơn do quy mô lớn của dự án. Một dự án điện gió ngoài khơi điển hình mất 3-5 năm để phát triển dự án và thêm 2-3 năm nữa để lắp đặt, lâu hơn thời gian 2-3 năm cần thiết để hoàn thành một dự án điện gió trên đất liền điển hình; có thể so sánh với một dự án LNG cần 5 năm phát triển dự án và 5 năm xây dựng.
Những con số thời gian này khiến các nhà hoạch định chính sách cần phải hành động ngay bây giờ để biến điện gió ngoài khơi trở thành trụ cột cơ bản của hệ thống năng lượng tương lai của Việt Nam. Các cam kết đầy tham vọng về điện gió ngoài khơi đến năm 2030 và 2040 trong QHĐ 8 sẽ giúp mở đường cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp bắt đầu phát triển dự án và chốt các quyết định tài trợ. Cần đưa ra một định nghĩa rõ ràng và chính thức để phân biệt các dự án điện gió bãi triều, ven bờ và các dự án điện gió ngoài khơi thực sự, để các nhà đầu tư và phát triển dự án yên tâm về cách thức các dự án được phân loại và áp dụng theo cơ chế giá FIT hoặc đấu thầu. Một kế hoạch chủ động cho điện gió ngoài khơi cũng mang lại cho Việt Nam lợi thế cạnh tranh trong nhóm các thị trường khu vực đang tìm cách mở rộng vai trò dẫn đầu trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi.
Gửi đi các tín hiệu chính sách mạnh mẽ để giảm chi phí: Trong 5 năm qua, điện gió ngoài khơi đã nổi lên là một ngành công nghiệp phát triển nhanh với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) 24% - củng cố vị thế của một nhân tố có thể làm thay đổi cục diện trong quá trình chuyển đổi năng lượng toàn cầu. Với 29,1 GW được lắp đặt trên toàn cầu vào cuối năm 2019, kỷ lục tăng trưởng mạnh mẽ này đã được hỗ trợ bởi việc giảm chi phí đáng kể; chi phí sản xuất điện quy dẫn (LCOE) của điện gió ngoài khơi đã giảm 68% so với mức của năm 2012.
Tuy nhiên, mức giảm chi phí đạt được ở các thị trường điện gió ngoài khơi đã phát triển hoàn thiện ở châu Âu không thể chuyển sang các thị trường mới nổi như Việt Nam nếu không thiết lập chuỗi cung ứng, cơ sở hạ tầng và khuôn khổ pháp lý ổn định và vững chắc. Tại các thị trường điện gió ngoài khơi mới hình thành hơn, việc giảm chi phí và khả năng phát triển của khối lượng lớn điện gió ngoài khơi có sự hỗ trợ giảm dần của nhà nước - đòi hỏi những tín hiệu chính trị mạnh mẽ về tầm nhìn dài hạn cho ngành.
Nhìn chung, ngành công nghiệp năng lượng tái tạo mang lại sức mạnh kinh tế to lớn. Theo một nghiên cứu gần đây của Đại học Oxford, khi thị trường đang đối mặt với suy thoái, năng lượng tái tạo tạo ra nhiều việc làm hơn trong ngắn hạn so với các lĩnh vực khác để kích thích tài chính và sau đó khi thị trường hoạt động trở lại, các dự án năng lượng tái tạo sẽ tiết kiệm lao động hơn cho vận hành và bảo trì, cho phép người lao động quay trở lại các khu vực khác của nền kinh tế. Nghiên cứu tương tự cũng trích dẫn kết quả rằng 1 triệu USD chi cho cơ sở hạ tầng năng lượng tái tạo tạo ra 7,5 việc làm toàn thời gian, so với chỉ 2,7 việc làm được tạo ra khi chi cho nhiên liệu hóa thạch.
Trong quá trình hoàn thiện QHĐ 8, Việt Nam có cơ hội bắt đầu quá trình phục hồi xanh bằng cách biến điện gió ngoài khơi trở thành một phần quan trọng trong hệ thống năng lượng trong tương lai và hướng các nguồn lực của chính phủ vào sự phát triển của ngành. Các thị trường khuyến khích đầu tư điện gió đang trên đà gặt hái những lợi ích KT-XH. Theo dự báo với 5,5 GW gió ngoài khơi được lắp đặt vào năm 2025 sẽ tạo ra 20.000 việc làm tại địa phương và gần 30 tỷ đô la Mỹ cho đầu tư từ nước ngoài; cũng như Nhật Bản, với khoảng 10 GW điện gió ngoài khơi được lắp đặt vào năm 2030 dự báo sẽ mang lại 46 - 55 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp.
Nền tảng cho phát triển ngành điện gió ngoài khơi của Việt Nam đã có, từ tính khả thi về kỹ thuật, nhu cầu điện ngày càng tăng và khoảng cách với nguồn cung điện ngày càng lớn. Điện gió ngoài khơi đã chứng tỏ mình trên thị trường thế giới là một nguồn năng lượng có thể nâng cấp, đáng tin cậy, sạch và giá cả phải chăng, có thể đáp ứng các cam kết quốc gia về khử cacbon và tăng cường an ninh năng lượng. Đây là tầm nhìn mà ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi - cùng với các lộ trình gần đây của Nhóm Ngân hàng Thế giới và Cơ quan Năng lượng Đan Mạch - tin rằng có thể thực hiện được. Chúng tôi kêu gọi Chính phủ Việt Nam ghi nhận tiềm năng to lớn này trong kế hoạch QHĐ 8 sắp tới, và đặc biệt thể hiện khát vọng hơn nữa trong các mục tiêu cao hơn, cụ thể hơn đối với ngành điện gió ngoài khơi đến năm 2040.
GIANG THƯ
Công ty Copenhagen Infrastructure Partners (CIP)